Ô nhiễm biển: Nguy cơ đối với phát triển bền vững
Đó là nhận định của TS. Trần Đức Thạnh, Viện Tài nguyên và Môi trường biển, Viện Hàn lâm Khoa học Công nghệ Việt Nam.
Theo ông Trần Đức Thạnh, nguyên nhân chính dẫn đến ô nhiễm biển là do phát triển công nghiệp, du lịch tràn lan vượt tầm kiểm soát; nuôi trồng thủy sản bất hợp lý; dân số tăng và nghèo khó; lối sống giản đơn và dân trí thấp; thể chế, chính sách còn bất cập...
Hiện có từ 70% đến 80% lượng rác thải trên biển có nguồn gốc từ nội địa khi các nhà máy, xí nghiệp, khu công nghiệp, khu dân cư xả nước thải, chất thải rắn không qua xử lý ra các con sông ở vùng đồng bằng ven biển hoặc xả thẳng ra biển.
![]() |
Ảnh minh họa. Nguồn: Internet. |
Lượng chất thải đã gia tăng rất lớn ở các vùng nước ven bờ, trong đó, theo con số thống kê cách đây vài năm, lượng dầu thải đã lên tới khoảng 35.160 tấn/ngày, nitơ 26-52 tấn/ngày, và amoni 15-30 tấn/ngày. Ví dụ, với tổng diện tích nuôi tôm hơn 600 nghìn ha, mỗi năm sẽ thải ra môi trường gần 3 triệu tấn chất thải rắn.
Cũng theo TS. Trần Đức Thạnh, hiện tại, “bức tranh” về chất lượng môi trường biển, đảo Việt Nam hết sức đa dạng, phức tạp, khó có thể có những đánh giá tổng quan và khách quan. Tuy nhiên, dựa vào nhiều nguồn điều tra, đánh giá phân tán, có thể đưa ra những nhận định chung sau đây:
Nồng độ các chất gây ô nhiễm có xu hướng ngày càng tăng. Cụ thể, ô nhiễm dầu phổ biến ở cả vùng nước sát bờ và ngoài khơi, đặc biệt trên tuyến hàng hải quốc tế. Một lượng dầu rất lớn bị rò rỉ ra môi trường biển do hoạt động của các tàu và do các sự cố hư hỏng hay đắm tàu chở dầu, do sự cố tại lỗ khoan thăm dò và dàn khoan khai thác dầu. Đáng chú ý là các vụ tràn dầu nghiêm trọng những năm gần đây có xu hướng tăng, gây thiệt hại nghiêm trọng cho môi trường biển, đặc biệt đối với sinh vật biển và thủy sản nuôi trồng. Tình trạng ô nhiễm dầu vượt xa tiêu chuẩn cho phép khá phổ biến ở nhiểu khu vực ven bờ Việt Nam và trên tuyến hàng hải quốc tế đi qua Biển Đông.
Nhiễm bẩn kim loại nặng chưa phổ biến nhưng ở nhiều nơi đã có biểu hiện tăng tích lũy trong nước, trầm tích và cơ thể sinh vật, trở thành mối hiểm họa lâu dài cho môi trường biển, nhất là đối với các kim loại nặng có độc tính như chì, cadimi, asen, thủy ngân...
Lượng cyanua xuất phát từ hoạt động tách chiết vàng trên lưu vực và gây mê đánh bắt hải sản, khá cao vào cuối những năm 90. Gần đây, câu chuyện cyanua lại bùng lên trong sự kiện ô nhiễm biển 4 tỉnh Bắc Trung Bộ liên quan đến hoạt động xả thải phi pháp của nhà máy Formosa.
Ô nhiễm nhóm chất hữu cơ bền có độc tính cao (POPs), bao gồm dư lượng hoá chất bảo vệ thực vật và các chất hữu cơ có độc tính có biểu hiện tích lũy, thậm chí vượt giới hạn cho phép tại một số điểm. Trong vụ ô nhiễm Formosa vào tháng 4/2016, phenol là thành phần ô nhiễm chính cùng cyanua gây thảm họa cá chết hàng loạt các tỉnh từ Hà Tính đến Thừa Thiên Huế.
Tình trạng ô nhiễm môi trường biển và hải đảo còn do các địa phương khai thác, sử dụng không hợp lý các vùng đất cát ven biển dẫn tới thiếu nước ngọt, xói lở, sa bồi bờ biển với mức độ ngày càng nghiêm trọng. Ô nhiễm hữu cơ dù cục bộ nhưng khá cao và vượt mức cho phép ở gần các khu du lịch, đông dân như Cửa Lục, Sầm Sơn, Nha Trang và Vũng Tàu...
Chưa kể dịch bệnh các vùng nuôi nhiều nơi gây thiệt hại lớn cho ngành thủy sản. Năm 1996, nghề nuôi tôm nước lợ ở châu thổ Mê Kông thiệt hại đến hàng nghìn tỉ đồng do dịch bệnh.
Nhìn một cách tổng quan, phần lớn diện tích biển đảo ở nước ta chưa bị ô nhiễm, nhưng ô nhiễm cục bộ theo không gian, thời gian và theo một số yếu tố riêng lẻ thì khá phổ biến, nhiều khi nghiêm trọng ở mức báo động vì có khả năng gây tác động xấu đến môi trường, sức khỏe cộng đồng.
Một số nơi, ô nhiễm cục bộ phát triển thành các điểm nóng ô nhiễm và trở thành nơi tích luỹ - phát tán ô nhiễm cho vùng nước ven bờ. Phần lớn các điểm nóng ô nhiễm tại các cửa sông, nơi đáng ra có khả năng phân tán, tự làm sạch môi trường rất tốt, ví dụ như vùng cửa Ba Lạt và vùng cửa sông Bạch Đằng.
Thiết nghĩ, các cơ quan hữu quan cần quan tâm đánh giá đúng mức hơn tới tình trạng ô nhiễm biển để đảm bảo sức khỏe cộng đồng cũng như sự phát triển kinh tế bền vững.