Nhiều nguy cơ xuyên biên giới liên quan tới môi trường biển
Ở vùng biển Việt Nam, do nhu cầu phát triển kinh tế, hội nhập quốc tế và khu vực, nên vấn đề môi trường xuyên biên giới ngày càng phức tạp, tác động nhiều mặt đến môi trường, hệ sinh thái và sức khỏe con người. Nhiều nguy cơ xuyên biên giới không đảm bảo cho phát triển bền vững, an ninh và an toàn môi trường, có khi dẫn đến những xung đột và tranh chấp có thể trong quan hệ quốc tế trên biển.
Trước hết là nguy cơ ô nhiễm xuyên biên giới theo hoàn lưu, xâm nhập qua tất cả các nguồn, có tính chất thường xuyên, lâu dài, phức tạp và khó kiểm soát. Hoàn lưu nước ven bờ sẽ đưa một khối lượng lớn các chất thải lỏng từ vùng nước lân cận và vùng biển quốc tế vào vùng biển Việt Nam.
Tại vùng cửa sông Bắc Luân và vùng biển Bạch Long Vĩ, Viện Tài nguyên & Môi trường biển đã nhiều lần phát hiện được dư lượng hoá chất bảo vệ thực vật có hàm lượng clo cao hơn nhiều lần so với khu vực ven bờ phía Tây vịnh.
![]() |
Ảnh minh họa. Nguồn: Internet. |
Thứ hai là nguy cơ tràn dầu xuyên biên giới, gây hậu quả xấu tới sinh thái môi trường ở vùng biển và ven biển, đang có mức độ và quy mô ngày càng gia tăng. Nguyên nhân gây ô nhiễm dầu và sự cố tràn dầu là do hoạt động giao thông vận tải biển, các hoạt động thăm dò, khai thác dầu khí trên biển ... Dầu tràn đã xuất hiện trong vùng biển của Việt Nam nhiều năm với quy mô lớn nhỏ khác nhau. Đặc biệt, đã xuất hiện một số vụ tràn dầu không rõ nguồn gốc gây lo ngại.
Thứ ba là nguy cơ rác thải rắn xuyên biên giới, chủ yếu vào Việt Nam theo con được nhập cảng, đổ thải từ trên đường hành hải của tàu và một phần theo dòng hải lưu. Một số vụ nhập khẩu rác thải lớn tại cảng Hải Phòng đã gây nhiều bức xúc cho công luận.
Được biết, Việt Nam đã tham gia Công ước Marpol ngăn ngừa ô nhiễm do tàu biển (1991) và Công ước Basel (1995). Việc vận chuyển trái phép các chất thải khác nhau từ những nước phát triển đến các nước đang phát triển vì bất cứ mục đích gì đều vi phạm công ước và gây ra sự ô nhiễm môi trường cho nước tiếp nhận.
Thứ tư, nguy cơ buôn bán động vật biển qua biên giới. Việt Nam đã tham gia Công ước Cites (1973) về cấm buôn bán quốc tế các loài động thực vật hoang dã có nguy cơ tuyệt chủng và Công ước đa dạng sinh học (1994). Thế nhưng những năm gần đây, lực lượng hải quan đã phải xử lý nhiều vụ buôn bán quá cảnh qua cảng Hải Phòng các động vật biển làm thực phẩm, đồ mỹ nghệ và các mục đích khác.
Thứ năm, sinh vật ngoại lai xâm hại là một trong những mối đe doạ nguy hiểm nhất, gây tổn thất đa dạng sinh học. Các tác động mà loại sinh vật này gây ra rất phức tạp, góp phần làm xuất hiện các bệnh dịch mới hoặc tái xuất hiện các bệnh dịch cũ ảnh hưởng đến sức khoẻ của con người; cạnh tranh với các loài bản địa về thức ăn, nơi sống...; tiêu diệt các loài bản địa khác; phá huỷ hoặc làm thoái hoá môi trường sống; truyền bệnh, kí sinh trùng cho sinh vật và con người ở nơi cư trú mới.
Thứ sáu, nhập khẩu nguồn phát thải thông qua các dự án đầu tư nước ngoài. Trường hợp điển hình là vụ xả thải của nhà máy luyện thép Fomosa vào đầu năm 2016 ở vùng biển Hà Tĩnh, tác động nghiêm trọng đến môi trường biển 4 tỉnh từ Hà Tĩnh đến Thừa Thiên Huế.
Gần đây, Trung Quốc đã tiến hành bồi đắp, mở lấn phi pháp để xây hàng loạt các công trình trên các bãi đá ngầm – rạn hô ở các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Đây là một tác nhân môi trường xuyên lãnh hải, ở mức thảm họa sinh thái, tác động tiêu cực đến đa dạng sinh học và nguồn lợi thủy sản trên toàn Biển Đông. Mức độ nghiêm trọng của hoạt động này đã bị Tòa trọng tài La Hay PCA phán quyết và tuyên án.