Can thiệp của ngành công nghiệp thuốc lá gây khó khăn cho công tác PCTHCTL
Bác sĩ Phạm Thị Hoàng Anh, Giám đốc Tổ chức phi chính phủ Nhịp cầu sức khỏe Canada (Healthbridge). |
PV: Thưa bác sĩ, được biết, bác sĩ là một trong số những người rất tâm huyết trong việc thúc đẩy Dự thảo Luật phòng chống thuốc lá. Xin bác sĩ cho biết tình hình hút thuốc hiện nay của người Việt? Lý do nào khiến số lượng người hút thuốc tại Việt Nam ngày càng nhiều?
Bác sĩ Phạm Thị Hoàng Anh: Với 15.6 triệu người hút thuốc, Việt Nam hiện đứng thứ 3 trong khu vực Asean và đứng thứ 9 trên thế giới về số người hút thuốc cao nhất. Trung bình cứ hai nam giới trưởng thành thì có một người hút thuốc, tỷ lệ hút thuốc ở thanh thiếu niên (15-24 tuổi) là 24,3%. Bên cạnh đó, có 28,5 triệu người không hút thuốc bị tiếp xúc với khói thuốc thụ động ở nhà và 5,9 triệu người không hút thuốc bị tiếp xúc với khói thuốc thụ động tại nơi làm việc. (Theo điều tra GATS 2015)
Số lượng người hút thuốc ở Việt Nam gia tăng là vì: Thuốc lá là một mặt hàng gây nghiện nên người đã hút sẽ rất khó để bỏ thuốc, việc cai nghiện cũng cần thời gian trong khi đó sẽ luôn có những người hút mới gia nhập thị trường một phần bởi các chiến lược tiếp thị, quảng bá của các công ty thuốc lá.
Mặc dù vậy, tín hiệu đáng mừng là với sự ra đời của Luật Phòng chống tác hại của thuốc lá (PCTHTL) và những nỗ lực trong thực hiện PCTHTL, tỷ lệ hút thuốc lá ở Việt Nam đã giảm. Theo kết quả điều tra toàn cầu về hút thuốc lá ở người trưởng thành (GATS) ở Việt Nam cho thấy trong giai đoạn 5 năm từ 2010 đến 2015: Tỷ lệ nam giới hút thuốc giảm 2,1% (từ 47,4% xuống 45,3%), tỷ lệ nữ giới hút thuốc giảm 0,3% (từ 1,4% xuống 1,1%); tỷ lệ hút thuốc chung ở khu vực thành thị giảm 2,7% (từ 23,3% xuống 20,6%).
Bên cạnh đó, tỷ lệ phơi nhiễm với khói thuốc thụ động giảm đáng kể tại hầu hết các địa điểm: tại nơi làm việc giảm 13,3% (từ 55,9% xuống 42,6%), tại các trường đại học, cao đẳng giảm 16,4% (từ 54,3% xuống 37,9%), trên phương tiện giao thông công cộng giảm 15% (từ 34,4% xuống 19,4%) và tại trường học giảm 6,2% (từ 22,3% xuống 16,1%) và tại gia đình giảm 13,2% (từ 73,1% xuống 59,9%).
PV: Việc phòng chống thuốc lá hiện nay tại Việt Nam đang gặp phải những thuận lợi và khó khăn gì? Cách thức nào để giải quyết khó khăn thưa bác sĩ?
Bác sĩ Phạm Thị Hoàng Anh: Thuận lợi trong công tác PCTHTL ở Việt Nam phải kể đến thứ nhất là sức khỏe là một vấn đề luôn được quan tâm trong các văn bản về chính sách của Đảng và nhà nước và PCTHTL lại là một vấn đề của sức khỏe cộng đồng. Việt Nam đã gia nhập Công ước Khung về kiểm soát thuốc lá của Tổ chức Y tế thế giới từ năm 2003, và Chính Phủ và Quốc hội Việt Nam đã thông qua Luật Phòng, chống tác hại của thuốc lá năm 2012, có hiệu lực từ 01/05/2013.
Luật quy định các chính sách kiểm soát thuốc lá cơ bản phù hợp với khuyến cáo Công ước khung về kiểm soát thuốc lá tại Việt Nam như quy đinh cấm hoàn toàn quảng cáo và tiếp thị thuốc lá, in cảnh báo sức khỏe bằng hình ảnh (50% diện tích vỏ bao), cấm hút thuốc nơi làm việc và những nơi công cộng khác, v.v.Việc ban hành Luật là khẳng định quyết tâm ngăn chặn tác hại của thuốc lá ở Việt Nam; và là văn bản pháp lý cao nhất tạo điều kiện thuận lợi cho công tác phòng, chống tác hại thuốc lá tại Việt Nam. Cùng với đó, Quỹ PCTHTL ra đời từ 2013 đã tạo nguồn lực quan trọng và bền vững để duy trì các hoạt động trong lĩnh vực PCTHTL.
Cho đến nay, với sự hỗ trợ của Quỹ PCTHTL, Ban chỉ đạo PCTHTL của 63 tỉnh, thành phố trên cả nước đã được thành lập. Việt Nam cũng nhận được sự hỗ trợ kỹ thuật lớn từ các tổ chức quốc tế như tổ chức Y tế thế giới, Liên minh kiểm soát thuốc lá Đông nam á (SEATCA), v.v
Bên cạnh đó, nhận thức của người dân về tác hại thuốc lá cũng đang dần được nâng cao giúp cho việc thực thi các chính sách PCTHTL tạo được sự đồng thuận tốt hơn.
Còn khó khăn lớn nhất trong phòng chống tác hại thuốc lá ở Việt Nam đó chính là sự can thiệp của ngành công nghiệp thuốc lá.
Ngành công nghiệp thuốc lá ở Việt Nam có nhiều cơ hội để can thiệp vào quá trình xây dựng các chính sách về PCTHTL. Ví dụ như ngành CNTL tham gia góp ý chính sách thuế tiêu thụ đặc biệt, ngành CNTL phối hợp và hỗ trợ kinh phí cho Chính phủ trong phòng chống buôn lậu thuốc lá, ngành CNTL có thể gặp gỡ các quan chức chính phủ cấp cao và qua đó đề xuất và các kiến nghị chính sách có lợi và tăng vị thế, đặc biệt, có sự luân chuyển cán bộ cấp cao giữa ngành CNTL và Chính phủ khi lãnh đạo doanh nghiệp thuốc lá trở thành cán bộ cao cấp của Bộ Công thương và ngược lại.
Bên cạnh tác động tới chính sách, ngành CNTL cũng có nhiều chiến lược tác động tới người tiêu dùng, đặc biệt là giới trẻ. Mặc dù luật pháp đã cấm tất cả các hình thức quảng cáo và tiếp thị thuốc lá, nhưng ngành CNTL vẫn thực hiện quảng cáo, tiếp thị sản phẩm qua nhiều hình thức như cung cấp các cho các cửa hàng tạp hóa nhỏ độc lập các poster quảng cáo, xe đẩy đựng thuốc lá của công ty – các xe được cung cấp miễn phí với thiết kế có áp phích quảng cáo, tên thương hiệu, logo và các màu sắc bắt mắt, hay sử dụng đội ngũ nữ nhân viên tiếp thị.
Có thể thấy sự can thiệp của ngành công nghiệp thuốc lá là thách thức lớn nhất cho việc thực thi các biện pháp phòng chống tác hại thuốc lá hiệu quả.
Xin cảm ơn bác sĩ về cuộc trò chuyện!