Hiện cả nước có bao nhiêu ha rừng phòng hộ?
Để đảm bảo chức năng bảo tồn đa dạng sinh học và các chức năng phòng hộ của rừng, hệ thống Rừng đặc dụng (RĐD) và Rừng phòng hộ (RPH) đã được điều chỉnh cho phù hợp trong giai đoạn 2006 – 2019.
Đến năm 2019, cả nước có 395 Ban quản lý RĐD và RPH đang quản lý 6.750.000 ha rừng, chiếm 48% diện tích đất lâm nghiệp, đại diện cho hầu hết các hệ sinh thái quan trọng trên cạn, trên biển và đất ngập nước, trong đó phần lớn là rừng nguyên sinh với hầu hết các loài động, thực vật quý, hiếm, có nguy cơ bị đe dọa, cụ thể:
Theo số liệu Báo cáo công tác quản lý hệ thống RĐD, RPH năm 2019, diện tích rừng đặc dụng năm 2006 là 2,203 triệu ha; năm 2019 là 2,162ha chiếm 14,8% tổng diện tích rừng cả nước. Hiện nay cả nước có 164 BQL RĐD quản lý hơn 2,152 triệu ha rừng chiếm 99,6% diện tích rừng đặc dụng; Các tổ chức quản lý khác quản lý 0,4% rừng đặc dụng gồm các tổ chức khoa học - công nghệ, đào tạo, giáo dục nghề nghiệp…
Ảnh minh họa. |
Diện tích RPH năm 2006 là 5,269 triệu ha; năm 2019 là 4,646 triệu ha, chiếm 31,8% diện tích rừng cả nước
Hiện nay, cả nước có 231 Ban quản lý RPH, Hệ thống tổ chức quản lý RPH tại các địa phương chưa thống nhất: 153 Ban quản lý RPH trực thuộc Sở NN&PTNT; 55 Ban trực thuộc UBND huyện; 5 Ban trực thuộc UBND tỉnh và 18 Ban trực thuộc Chi cục kiểm lâm.
Rừng Việt Nam có địa hình phức tạp, chia cắt mạnh với hệ thống sông suối dầy khắp cả nước; khí hậu nhiệt đới thuận lợi cho phát triển cây trồng nhưng cũng chịu nhiều rủi ro thiên tai, là một trong những chịu ảnh hưởng nhiều nhất do biến đổi khí hậu,…do đó nhu cầu về phát triển RPH, bảo đảm an ninh nguồn nước, an ninh môi trường để phát triển bền vững là rất lớn.
Hệ thống RPH, RĐD ở Việt Nam đã hình thành trên toàn quốc. Tuy nhiên, 2 hệ thống này hầu như được quản lý và hoạt động độc lập, chưa có sự liên kết chặt chẽ với nhau, trong khi chức năng của 2 hệ thống này rất tương đồng nên hiệu quả thấp, lãng phí tài nguyên thiên nhiên và các nguồn lực;
Hệ thống RĐD chưa tương xứng với nhu cầu, nguy cơ mất sự đa dạng sinh học lớn. Việc đánh giá giá trị nguồn gen, khai thác sử dụng nguồn gen cho lai tạo giống cây trồng lâm nghiệp còn rất hạn chế; cơ sở hạ tầng phục vụ bảo tồn và khai thác, phát triển ngồn gen cây lâm nghiệp còn bất cập, chưa đáp ứng nhu cầu phát triển.
Việc chuyển mục đích đất, rừng sang trồng các loài cây khác chưa được nghiên cứu kỹ, vội áp dụng vào thực tế dẫn đến lãng phí tài nguyên đất, tài nguyên rừng, hiệu quả mang lại không cao.
Trong nhiều giai đoạn phát triển Lâm nghiệp, nhà nước có nhiều chế độ chính sách đã áp dụng đầu tư tài chính cho bảo vệ và phát triển rừng phòng hộ. Tuy nhiên, theo đại diện BQL rừng phòng hộ Yaly (Gia Lai), việc đầu tư cho con người trực tiếp quản lý bảo vệ rừng chưa tương xứng, lực lượng quản lý bảo vệ rừng chuyên trách của các chủ rừng, chưa được quan tâm đúng mức.
Đại diện BQL Rừng phòng hộ Yaly cho biết, hiện nay, bình quân mỗi nhân viên bảo vệ rừng chuyên trách, phải đảm nhiệm từ 1.000 ha rừng trở lên; mùa khô trực phòng chống cháy rừng 24/24 giờ, kể cả ngày nghỉ; do đó người làm công tác bảo vệ rừng luôn luôn không hoàn thành nhiệm vụ, bị kiểm điểm kỷ luật thường xuyên và tình trạng bỏ việc ở các Ban quản lý rừng phòng hộ cũng xảy ra phố biến).
Nguyễn Tuân