Năm 2017, tỷ lệ hộ nghèo giảm khoảng 1-1,5%
Đóng góp ý kiến về nội dung thực hiện các chính sách giúp thực hiện mục tiêu giảm nghèo bền vững tại Hội trường Quốc hội ngày 31/10, đại biểu Bạch Thị Hương Thủy, đoàn ĐBQH tỉnh Quảng Bình, cho rằng trong thời gian qua chính sách an sinh xã hội được thực hiện cơ bản đồng bộ, đời sống vật chất và tinh thần của người dân và các đối tượng chính sách của xã hội tiếp tục được chăm lo.
Nhiều chính sách đi vào cuộc sống
Nhiều chương trình, chính sách đã đi vào cuộc sống như chương trình giảm nghèo bền vững cho 62 huyện nghèo. Chương trình phát triển kinh tế - xã hội cho các xã đặc biệt khó khăn ở khu vực dân tộc thiểu số và miền núi; Phong trào cả nước chung tay vì người nghèo, không ai bị bỏ lại phía sau, ước tính năm 2017 tỷ lệ hộ nghèo theo chuẩn nghèo tiếp cận đa chiều giảm khoảng 1-1,5% so với cuối năm 2016.
Theo bà Bạch Thị Hương Thủy, có được kết quả như vậy chính là sự lãnh đạo của Đảng, việc thực thi của Chính phủ, các bộ, ngành và các địa phương, nhiều tỉnh thực hiện tốt các chính sách về giảm nghèo, từng bước thoát nghèo cùng với việc tiếp tục đẩy mạnh thực hiện các chính sách, dự án giảm nghèo theo hướng bền vững, tăng cường khả thi tiếp cận của đối tượng thụ hưởng và sự tham gia của người nghèo theo tinh thần chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững.
Khu tái định cư thủy điện Lai Châu. |
Tập trung chỉ đạo thực hiện Nghị quyết số 30a ngày 27/12/2008 của Chính phủ về chương trình hỗ trợ giảm nghèo nhanh và bền vững, các tỉnh đã chủ động trong việc điều tiết nguồn vốn, lồng ghép các chương trình, dự án để thực hiện các chương trình có trọng tâm, trọng điểm, đầu tư dứt điểm các hạng mục công trình, tránh tình trạng manh mún, phân tán kém chất lượng, lãng phí, người dân ở vùng khó khăn thường là đối tượng phải chịu thiệt thòi, rủi ro do thiên tai đem lại cao, nhiều gia đình vẫn trong vòng luẩn quẩn nghèo, thoát nghèo và tái nghèo.
Bên cạnh những kết quả đạt được, thực hiện mục tiêu giảm nghèo bền vững, đời sống một bộ phận dân cư đặc biệt là vùng cao, vùng sâu, đồng bào dân tộc thiểu số gặp nhiều khó khăn. Khoảng cách giàu nghèo có xu hướng gia tăng. Theo bà Bạch Thị Hương Thủy, nguyên nhân của những hạn chế đó xuất phát từ những vấn đề như:
Cơ sở hạ tầng kinh tế - xã hội vùng núi dân tộc thiểu số vẫn yếu kém nhất. Địa hình chia cắt, chi phí sản xuất đầu tư lớn, thiên tại lũ lụt ngày càng phức tạp làm cho hệ thống cơ sở hạ tầng hư hỏng, nhất là giao thông thủy lợi. Điều kiện sản xuất kinh tế của người dân gặp nhiều khó khăn. Đất sản xuất nông nghiệp hạn chế ngày càng thu hẹp. Rừng nghèo, kiệt, khả năng tái sinh thấp. Tập quán sản xuất lạc hậu nên thu nhập bình quân của dân khu vực này là thấp và bấp bênh, phụ thuộc vào thời tiết thuận hay nghịch. Khả năng tích lũy của người dân thấp hầu như không đáng kể. Do đó, việc đầu tư cho sản xuất gặp nhiều khó khăn, nguồn vốn vay tín dụng ưu đãi hạn chế, hạn mức vay thấp, thời gian ngắn trong khi chu kỳ sản xuất và yêu cầu thời gian tích lũy cần dài nên hiệu quả xóa đói giảm nghèo của tín dụng ưu đãi chưa thực sự đến với người dân đầy đủ.
Trình độ sản xuất theo hướng thị trường của đồng bào dân tộc thiểu số còn nhiều hạn chế không đáp ứng được yêu cầu thị trường nên sản phẩm sản xuất ra gặp khó khăn trong khâu tiêu thụ. Đó là những nguyên nhân cơ bản làm cho công tác xóa đói giảm nghèo nói chung và giảm nghèo từng khu vực miền núi dân tộc thiểu số gặp nhiều khó khăn. Mặc dù tỷ lệ hộ nghèo giảm, theo báo cáo của Chính phủ huyện nghèo giảm 4% nhưng tỷ lệ hộ tái nghèo rất cao. Đây là điều đáng quan tâm.
Một số kiến nghị
Để thực hiện mục tiêu giảm nghèo bền vững, bà Thủy kiến nghị với Quốc hội, Chính phủ quan tâm thực hiện một số nội dung như:
Chính phủ cần ban hành chính sách khung và giao ngân sách tổng thể trung hạn. Cấp tỉnh quyết định các chính sách cụ thể phương thức thực hiện và phân khai ngân sách cho cấp huyện. Cấp huyện quyết định các hoạt động hỗ trợ hoặc công trình được đầu tư trên cơ sở đề nghị của cấp xã, cộng đồng dân cư.
Đại biểu Quốc hội Bạch Thị Hương Thủy. |
Có cơ chế để huy động nguồn lực hỗ trợ từ cộng đồng doanh nghiệp, các tổ chức quốc tế và chính bản thân hộ nghèo trong thực hiện mục tiêu giảm nghèo. Các chính sách và nguồn lực phải được công khai minh bạch, hỗ trợ đúng đối tượng và hiệu quả, chuyển dần từ hình thức hỗ trợ cho không sang hỗ trợ có điều kiện hoặc có thu hồi để người dân có ý thức bảo toàn vốn, tránh tư tưởng ỷ lại, trông chờ vào sự hỗ trợ của nhà nước. Đồng thời tăng cường giám sát quản lý sử dụng nguồn lực bảo đảm tính dân chủ công khai thực hiện nguyên tắc "dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra và dân hưởng" trong quản lý và sử dụng nguồn nhân lực.
Xây dựng quy trình giám sát và hệ thống chỉ tiêu, theo dõi chi tiêu chặt chẽ, bảo đảm vốn được sử dụng đúng mục tiêu, đúng đối tượng, có hiệu quả, không thất thoát. Trong xây dựng cơ sở hạ tầng phải thực hiện nguyên tắc xã có công trình, dân có việc làm và thu nhập. Trên cơ sở là tiềm năng của mỗi địa phương thì cần nghiên cứu ban hành chính sách thu hút các doanh nghiệp đầu tư vào lĩnh vực sản xuất, kinh doanh, nông, lâm nghiệp, du lịch, dịch vụ, góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế, tạo việc làm tại chỗ cho lao động nông thôn của các huyện nghèo. Khuyến khích hộ nghèo, xã nghèo vươn lên thoát nghèo thông qua hình thức tăng thêm nguồn lực đối với những địa bàn thực hiện tốt, cắt giảm các huyện, xã thực hiện kém hiệu quả, thất thoát lãng phí nguồn vốn đầu tư.
Trong các nguồn vốn hỗ trợ nguồn lực nhà nước luôn giữ vai trò quyết định do Chính phủ nên ưu tiên và bố trí kịp thời nguồn vốn để thực hiện chương trình giảm nghèo, trong đó ưu tiên cho các địa bàn nghèo như huyện nghèo, xã nghèo, thôn bản đặc biệt khó khăn để giúp họ thoát nghèo bền vững hơn.
Bà Bạch Thị Hương Thủy cũng đề nghị Chính phủ có cơ chế đặc thù cho việc xây dựng mới các khu tái định cư, đẩy nhanh tiến độ quy hoạch tái định cư, đầu tư xây dựng để có thể nhanh chóng ổn định đời sống nhân dân, nhất là những địa bàn dễ xảy ra lũ lụt, hạn hán, sạt lở do ảnh hưởng tác động xấu của biến đổi khí hậu, hỗ trợ, giúp đỡ đồng bào để đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội toàn diện.