Cho phá sản ngân hàng, quỹ tín dụng: Đánh giá kỹ rủi ro,quyền lợi người gửi tiền
Quốc hội đã chính thức thông qua dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Các tổ chức tín dụng vào chiều 20/11/2017. Trong đó đáng chú ý là những quy định về cho phép phá sản, chuyển giao bắt buộc ngân hàng yếu kém.
Trong 5 phương án cơ cấu lại tổ chức tín dụng, phương án phá sản là quy định mới, lần đầu được thông qua tại Luật này.
Theo Thống đốc NHNN Lê Minh Hưng, với vai trò là trung gian tài chính trong hoạt động huy động và cho vay, các tổ chức tín dụng có thể có nguy cơ khi yếu kém phải đối mặt với tình trạng bị rút tiền hàng loạt, đe dọa đổ vỡ dây chuyền, ảnh hưởng đến quyền lợi của người gửi tiền. Do đó, Chính phủ cũng như cơ quan soạn thảo đã rà soát và nghiên cứu rất kỹ các quy định tại phương án phá sản để đảm bảo sự thận trọng cần thiết.
Theo quy định của luât, thẩm quyền quyết định chủ trương và phê duyệt phương án phá sản tổ chức tín dụng thuộc thẩm quyền của Chính phủ. Chủ trương phá sản chỉ xem xét theo nguyên tắc là biện pháp cuối cùng, khi tổ chức tín dụng được kiểm soát đặc biệt không có khả năng thực hiện, hoặc thực hiện không thành công các phương án khác, như phục hồi, sáp nhập, hợp nhất, giải thể hoặc chuyển giao bắt buộc.
“Khi xây dựng phương án phá sản, quan điểm chỉ đạo chung của Chính phủ là phải đánh giá tác động kỹ lưỡng của việc phá sản đối với sự an toàn của toàn hệ thống. Rủi ro tiềm ẩn đối với toàn bộ nền kinh tế cũng như bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người gửi tiền. Việc sửa đổi luật đã bổ sung các quy định để cho phép Chính phủ được áp dụng các biện pháp đặc biệt nhằm bảo đảm an toàn hệ thống các tổ chức tín dụng, trật tự và an toàn xã hội khi xử lý các tổ chức tín dụng được kiểm soát đặc biệt và báo cáo Quốc hội tại kỳ họp gần nhất”, Thống đốc Lê Minh Hưng nói.
![]() |
Thống đốc NHNN Lê Minh Hưng. |
Theo Luật sửa đổi, trường hợp thực hiện Phá sản tổ chức tín dụng được kiểm soát đặc biệt, Ngân hàng Nhà nước trình Chính phủ quyết định chủ trương phá sản tổ chức tín dụng được kiểm soát đặc biệt theo quy định.
Trong thời hạn 30 ngày, kể từ ngày Chính phủ quyết định chủ trương phá sản tổ chức tín dụng được kiểm soát đặc biệt, Ban kiểm soát đặc biệt có trách nhiệm phối hợp với tổ chức tín dụng được kiểm soát đặc biệt, Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam xây dựng phương án phá sản tổ chức tín dụng được kiểm soát đặc biệt trình Ngân hàng Nhà nước xem xét.
Trường hợp xây dựng phương án phá sản quỹ tín dụng nhân dân, Ban kiểm soát đặc biệt có trách nhiệm phối hợp với quỹ tín dụng nhân dân được kiểm soát đặc biệt, Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam và Ngân hàng Hợp tác xã Việt Nam thực hiện.
Trong thời hạn 30 ngày, kể từ ngày nhận được phương án phá sản, Ngân hàng Nhà nước có trách nhiệm xem xét, đánh giá tính khả thi của phương án, trình Chính phủ phê duyệt phương án phá sản tổ chức tín dụng được kiểm soát đặc biệt.
Về thẩm quyền quyết định cơ cấu lại TCTD được kiểm soát đặc biệt (Điều 146), đa số các trường hợp xử lý TCTD được kiểm soát đặc biệt đều thuộc thẩm quyền của Thủ tướng Chính phủ và Ngân hàng Nhà nước. Việc thực hiện phương án phá sản, phương án giải thể, phương án chuyển giao bắt buộc TCTD được kiểm soát đặc biệt có khả năng gây ảnh hưởng và tác động lớn đến an toàn hệ thống, trật tự an toàn xã hội, do vậy UBTVQH cho rằng cần giao thẩm quyền quyết định chủ trương áp dụng và phê duyệt cho Chính phủ để quá trình xem xét, quyết định cẩn trọng, cân nhắc toàn diện.
Về kiểm soát đặc biệt, UBTVQH cho rằng TCTD khác với doanh nghiệp thông thường, TCTD có nhiều chi nhánh, phạm vi hoạt động rất lớn với rất nhiều giao dịch. Mỗi TCTD được đặt vào kiểm soát đặc biệt có khó khăn và vấn đề tồn tại cần phải xử lý khác nhau, từ đó thành phần tham gia của Ban kiểm soát đặc biệt cũng khác nhau, có thể được điều động từ cán bộ của Ngân hàng Nhà nước, tổ chức bảo hiểm tiền gửi, các TCTD, số lượng thành viên Ban kiểm soát đặc biệt khá nhiều, có thể từ vài chục đến hàng trăm người nên khó có thể quy định chung về tiêu chí, tiêu chuẩn, thành phần của Ban kiểm soát đặc biệt trong Luật mà cần giao Ngân hàng Nhà nước quyết định thành lập như quy định hiện hành để tạo sự linh hoạt, chủ động trong điều hành.