Cần tránh làm tổn thương nạn nhân khi phỏng vấn
Theo TS. Lisa Rende Taylor, Chuyên gia Dự án Liên minh các Tổ chức Liên Hợp Quốc về Phòng chống buôn bán người, những người làm nghiên cứu và thực hiện chương trình phòng chống buôn bán người cũng có thể vô tình gây hại cho các nạn nhân khi để lộ danh tính nạn nhân hoặc làm họ bị tổn thương.
Để hạn chế những nguy cơ có thể xảy ra, TS. Lisa Rende Taylor cho rằng khi thực hiện phỏng vấn, hãy tự hỏi bản thân những câu hỏi liệu có thể gây nên những rủi ro nào về mặt an toàn, tâm lý, xã hội, kinh tế hoặc những mặt khác khi phỏng vấn nạn nhân; liệu có gây hại gì cho người thân của nạn nhân khi phỏng vấn họ?
Để đảm bảo không gây hại cho nạn nhân của những vụ buôn bán người, TS. Lisa Rende Taylor cho rằng trước tiên cần tôn trọng quyền của người tham gia và không nên cho mình quyền phán xét.
Một nguyên tắc nữa là phải quan sát xung quanh khi phỏng vấn nạn nhân. “Cần quan sát xung quanh xem có camera hay không? Có ai đang nghe cuộc trò chuyện này không? Người tham gia vào nghiên cứu/người hưởng lợi chương trình trông có vẻ không thoải mái hoặc còn bị chấn thương về tâm lý hay không? Nếu vậy, hãy tìm một nơi thích hợp hơn để đảm bảo có sự riêng tư thoải mái, hoặc không kéo dài cuộc phỏng vấn nếu như xúc cảm của họ không giảm bớt đi,” TS. Lisa Rende Taylor chia sẻ.
Trong phỏng vấn nạn nhân, cần biết rõ về sự an toàn và môi trường xã hội của người tham gia bởi người phỏng vấn có thể vô tình làm tăng nguy cơ bị trả thù hoặc bị kỳ thị bởi người chủ lao động, người giám sát, thành viên gia đình, cộng đồng…Điều này đòi hỏi sự nhạy cảm của người phỏng vấn, để khi cần thiết có thể hoãn hoặc thay đổi lịch phỏng vấn hoặc địa điểm phỏng vấn.
![]() |
Một tiết học về phòng chống buôn bán người dành cho học sinh THPT tại tỉnh Tây Ninh. Ảnh: IOM Việt Nam. |
Theo TS. Lisa Rende Taylor, bên cạnh việc phỏng vấn nạn nhân, khi lên kế hoạch cho các sự kiện/chương trình, cần đảm bảo những nguyên tắc sau:
Ý kiến từ người hưởng lợi được thu thập để đảm bảo rằng sự kiện/chương trình đó đáp ứng những nhu cầu và mức độ thoải mái của bản thân họ;
Không có điều gì gây ảnh hưởng tới sự bảo mật thông tin của người bị buôn bán hay gia đình họ;
Truyền thông cần phải hiểu về những quy tắc đạo đức và những vấn đề liên quan tới nhân quyền của người bị buôn bán khi đưa tin về họ;
Sự kiện/chương trình đó sẽ không gây ra sự kỳ thị đối với người bị buôn bán theo bất kỳ cách thức nào.
Đánh giá tác động được thực hiện để chứng tỏ rằng hoạt động đó không góp phần làm tăng tình trạng dễ bị tổn thương của họ và/hoặc tăng thêm gánh nặng cho tình trạng hiện nay của họ.
Một ví dụ về việc vi phạm quy tắc “không gây hại” được TS. Lisa Rende Taylor đưa ra là thông tin báo chí sau vụ sóng thần tại Indonesia cuối năm 2004. Một loạt những thách thức về vấn đề nhân đạo và phát triển sau vụ sóng thần ngày 26/12/2004. Một trong số đó là do một tổ chức quốc tế đã thông tin một cách thiếu trách nhiệm với báo chí về việc bảo vệ trẻ em, trong đó có vấn đề buôn bán trẻ em. Trước khi có bằng chứng thực tiễn để chứng minh cho các vụ việc trẻ em bị buôn bán, tổ chức này đã báo cáo các trường hợp trẻ em bị buôn bán tại các vùng bị ảnh hưởng bởi vụ sóng thần. Kết quả là có một sự kiểm soát chặt chẽ đối với những người tới giúp đỡ một cách hợp pháp các trẻ em là con cháu của những người đã qua đời. Thêm vào đó, việc hướng sự chú ý tới vấn đề buôn bán trẻ em làm cho những công việc khẩn cấp và quan trọng hơn trước mặt bị sao nhãng, trong đó có cả nạn đói, những thách thức về việc cung cấp lương thực, bệnh tật và nhu cầu thuốc thang…
Phản ứng từ các cơ quan phát triển khác đã chỉ rõ việc thông tin cho báo chí một cách không có căn cứ như vậy đã làm cho những ý định tích cực ban đầu lại gây nên những tác động tiêu cực.