Các khu bảo tồn biển giúp giảm nhẹ tác động của biến đổi khí hậu
Ngoài ra, các khu bảo tồn có thể tăng cường khả năng dự trữ và hấp thụ các bon do phát thải khí nhà kính, đặc biệt là các khu vực đầm lầy ven biển giúp làm giảm tốc độ biến đổi khí hậu.
Đây là nội dung của một nghiên cứu được đăng trên Tập san của Viện hàn lâm Khoa học quốc gia Hoa Kỳ (Proceedings of the National Academy of Sciences).
Trên thế giới hiện có 3,5% đại dương được dành cho bảo tồn và chỉ có 1,6% được bảo vệ hoàn toàn không cho phép khai thác. Các nhóm nghiên cứu mong muốn tăng tỷ lệ này lên 10% đến năm 2020. Đến năm 2030 có ít nhất 30% đại dương được bảo vệ.
![]() |
Một bãi san hô tại Phú Quốc. Ảnh: VGP/Công Việt |
Trước đây, việc nghiên cứu các khu bảo tồn biển đã được chứng minh hỗ trợ rất tốt cho bảo vệ các loài hoang dã, hỗ trợ hiệu quả cho nghề cá. Nhưng nghiên cứu mới này còn chỉ thêm được việc khu bảo tồn biển có lợi ích cả trong việc giảm thiểu tác động của biến đổi khí hậu. Một điều khá rõ ràng là các khu bảo tồn có thể tạo ra cho hệ sinh thái đại dương và con người các lợi ích quan trọng về khả năng phục hồi khi có biến đổi khí hậu.
Cụ thể, nghiên cứu chỉ ra rằng, bảo vệ đại dương nhiều hơn cũng sẽ giúp cải thiện triển vọng đối với sự phục hồi môi trường sau khi sự phát thải khí nhà kính được kiểm soát. Mục tiêu bảo vệ đại dương của Liên hợp quốc tăng từ 10% đến 30% diện tích độ phủ các khu bảo tồn biển, việc này sẽ đòi hỏi phải có nhiều khu bảo tồn biển quy mô lớn hơn vượt ra ngoài giới hạn của quyền tài phán quốc gia, các khu bảo tồn liên quốc gia.
Việt Nam hiện có 9 khu bảo tồn biển
Các khu vực bảo tồn biển tại Việt Nam gồm Cát Bà, Bạch Long Vỹ, Cồn Cỏ, Cù Lao Chàm, Vịnh Nha Trang, Núi Chúa, Hòn Cau, Côn Đảo, Phú Quốc.
Ông Nguyễn Thanh Bình, Phó Vụ trưởng Vụ Bảo tồn và Thủy sản cho biết, hiện chỉ có 0,17% tổng diện tích biển (1 triệu cây số vuông) đã được đặt mục tiêu bảo tồn nghiêm ngặt, dự kiến tăng 0,24% trong những năm tới.
Song, các khu bảo tồn biển ở Việt Nam cũng đang phải đối mặt với những mối đe dọa nghiêm trọng về ô nhiễm, động đất, hoạt động nổ mìn và đánh bắt cá, xây dựng cơ sở hạ tầng cho du lịch. Điều này làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến môi trường và đa dạng sinh học ở các khu bảo tồn biển. Rạn san hô và rong biển đã bị suy thoái; chất lượng nước biển và ô nhiễm nặng từ các tuyến bờ biển càng làm tình hình nghiêm trọng thêm. Trong khi, chưa có nhiều nghiên cứu về đa dạng sinh học và rạn san hô ở các khu bảo tồn biển.
Lý do cho việc các khu bảo tồn biển Việt Nam phải đối mặt với những đe dọa nghiêm trọng là việc chậm lập nên một kế hoạch bảo vệ biển và một khuôn khổ pháp lý còn yếu kém. Ngoài ra, ngân sách cho việc bảo tồn biển còn thiếu, chưa có sự hợp tác hiệu quả giữa các cơ quan trung ương và chính quyền địa phương…
Giải pháp được bà Bùi Thị Thu Hiền, Điều phối Chương trình Biển và Vùng bờ của Tổ chức Bảo tồn Thiên nhiên Quốc tế (IUCN), từng nêu ra là các khu bảo tồn biển cần dành một phần thu được từ dịch vụ du lịch để tăng cường quản lý và bảo vệ môi trường biển quốc gia.
Một trong những khu bảo tồn làm được điều này là Hạ Long. Nơi đây đã từng thu về 18% trong tổng số 783 tỷ đồng (35 triệu USD) từ dịch vụ du lịch vào năm ngoái để dành cho các hoạt động bảo tồn.
Còn khu bảo tồn biển quần đảo Chàm - Hội An - khu dự trữ sinh quyển thế giới được UNESCO công nhận năm 2009 đã thực hiện thành công chiến dịch "Không có túi nhựa" và "Không đánh bắt cá". Cùng với đó, đảo Chàm đã cấm đánh bắt 0,5% trong tổng diện tích 6.716 ha biển, và sẽ tăng lên đến 10% trong những năm tới. Ngoài ra, còn dành 50% trong tổng số 650.000 đô la thu nhập để bảo tồn và bảo vệ khu bảo tồn biển.
Các nhà khoa học cho biết, các khu dự trữ sinh quyển và các khu bảo tồn biển (MPAs) có tác dụng:
Bảo vệ bờ biển khỏi nước biển dâng, gió bão và các hiện tượng thời tiết cực đoan khác.
Giúp bù lại mức suy giảm năng suất sinh học của đại dương và nghề cá do biến đổi khí hậu gây ra.
Tạo nơi trú ẩn cho các loài thủy sinh để chúng thích nghi với các điều kiện đang thay đổi.
Có thể giúp chống lại sự axit hóa đại dương.