Ô nhiễm môi trường biển là thách thức lớn trong phát triển kinh tế biển
Khó khăn đầu tiên phải kể đến là đa dạng sinh học biển và nguồn lợi thủy hải sản giảm sút. Các hệ sinh thái biển quan trọng bị suy thoái, bị mất habitat và bị thu hẹp diện tích. Các quần đàn có xu hướng di chuyển ra xa bờ hơn do thay đổi cấu trúc hoàn lưu ven biển liên quan đến biến đổi khí hậu, thay đổi tương tác sông biển ở vùng cửa sông ven bờ, do mất đến 60% các nơi cư trú tự nhiên quan trọng.
Rừng ngập mặn mất khoảng 15.00o ha /năm, khoảng 80% rừng sinh thái trong vùng biển Việt Nam nằm trong tình trạng rủi ro, trong đó 50% ở mức cao. Hiện đã có khoảng 100 loài hải sản ở cấp độ nguy cấp khác nhau và trên 100 loài đã được đưa vào sách đỏ Việt Nam.
Nguồn lợi hải sản đang có nguy cơ giảm về trữ lượng, sản lượng và kích thước đánh bắt. Năng suất tôm nuôi quảng canh trong rừng ngập mặn bị giảm sút từ khoảng 200kg/ha/vụ và đến nay chỉ còn 80kg/ha/vụ. Bên cạnh đó 1ha rừng ngập mặn trước đây có thể khai thác được 800kg thủy sản nhưng hiện nay chỉ thu được 1/20 so với trước.
Phát triển kinh tế biển vẫn còn nhiều thách thức (Ảnh minh họa) |
Nguồn lợi hải sản ở vùng biển gần bờ có dấu hiệu bị khai thác quá mức do tăng nhanh số lượng tàu thuyền đánh cá nhỏ, hiệu suất khai thác đang giảm mạnh. Trong khi đó trữ lượng hải sản ở vùng biển xa bờ chưa được đánh giá đầy đủ. Những năm gần đây, các hoạt động tôn tạo, mở rộng các bãi cạn thành đảo nhân tạo ở cụm Trường Sa của Trung Quốc đã hủy hoại nghiêm trọng môi trường không chỉ đối cới vùng biển Trường Sa mà còn đối với phần còn lại của biển Đông.
Đến nay biển, đảo và vùng ven biển nước ta vẫn chủ yếu được quản lý theo cách tiếp cận mở kiểu “điền tư, ngư chung” và chủ yếu quản lý theo ngành thông qua luật pháp. Hiện nay chúng ta vẫn thiếu các luật cơ bản về biển để thực thi hiệu quả công tác quản lý nhà nước tổng hợp và thống nhất về biển, hải đảo. Điều này dẫn đến sự chồng chéo về quản lý giữa 15 bộ ngành về biển, chính sách quản lý thiếu đồng bộ, trong các luật hiện có không ít điểm chồng chéo, hiệu quả thi hành thấp.
Sự tham gia của cộng đồng địa phương vào tiến trình quản lý còn rất thụ động, chưa làm rõ vấn đề sở hữu, sử dụng đất ven biển và mặt nước biển cho người dân địa phương ven biển. Công tác kiếm tra, kiểm soát, cấp và thu hồi giấy phép sử dụng, khai thác tài nguyên biển chậm được triển khai để thực hiện chủ trương “kinh tế hóa” trong lĩnh vực tài nguyên biển.
Bên cạnh đó, vấn đề ô nhiễm môi trường biển cũng là vấn đề đáng báo động. Chúng ta cần bảo đảm chất lượng môi trường biển cho phát triển bền vững kinh tế - xã hội biển thông qua tăng cường, kiểm soát môi trường biển, quản lý và xử lý hiệu quả các chất thải, chất gây ô nhiễm trước khi đổ ra biển từ các lưu vực sông ven biển và từ các hoạt động kinh tế biển.
Phòng ngừa và sẵn sàng ứng cứu các sự cố môi trường biển, các vụ tràn dầu không rõ nguồn gốc, ngăn ngừa suy thoái và phục hồi hệ sinh thái đã bị mất, đã bị suy thoai.
Thực hiện quy hoạch hệ thống khu bảo tồn biển đến năm 2020 được Thủ tướng phê duyệt vào năm 2010 và tiếp tục phát hiện các vùng biển giàu, đẹp, có các giá trị quốc gia, quốc tế để trình cấp có thẩm quyền cũng như các tổ chức quốc tế công nhận.
Bên cạnh đó, chúng ta cũng cần chủ động phòng ngừa và thực thi các biện pháp thích ứng, giảm thiểu tác động của biến đổi khí hậu và nước biển dâng đến vùng ven biển, biển và hải đảo. Khuyến khích sự chủ động tham gia của cộng đồng địa phương và cải thiện sức chống chịu của dân cư ven biển trên các đảo trước các tác động của biến đổi khí hậu và biến đổi đại dương.
Cuối cùng, việc chúng ta cần làm lúc này là xây dựng tập đoàn kinh tế biển mạnh trong một số lĩnh vực có thể như: Dầu khí, khoáng sản biển, hàng hải, đóng tàu, khai thác và chế biến hải sane làm lực lượng nòng cốt và tiên phong trong phát triển kinh tế biển, trong việc vươn xa và từng bước hội nhập kinh tế đại dương.